Đây sẽ là bài viết khởi đầu trong series bài viết về những cuộc cách mạng có ảnh hưởng lớn tới lịch sử của ngành đồng hồ.
Trong series bốn bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về bốn cuộc cách mạng có ảnh hưởng lớn tới lịch sử của ngành đồng hồ. Chúng ta sẽ bắt đầu với Cách mạng đồng hồ Quartz(hay còn biết tới với cái tên “Khủng hoảng đồng hồ Quartz” tại Thụy Sĩ), lần lượt tiếp sau sẽ là “Sự lên ngôi của đồng hồ thời trang”, “Sự phục hưng của đồng hồ cơ khí” và cuối cùng là thời điểm hiện tại với cuộc “Cách mạng đồng hồ thông minh”.
Mỗi cuộc cách mạng hay phục hưng đều sẽ có ảnh hưởng khác nhau tới những đối tượng khác nhau, mỗi bên sẽ có lúc thăng lúc trầm nhất định. Nhưng tác giả sẽ phân tích theo một góc độ khách quan nhất và cho các bạn có một cái nhìn tổng quát.
Chúng ta sẽ bắt đầu với phần đầu tiên: “Cách mạng đồng hồ Quartz”
Đồng hồ Quartz bắt đầu cất tiếng nói dõng dạc đầu tiên vào tuần cuối cùng của thập niên 60 của thế kỷ trước. Vào ngày 25/12/1969, Seiko đã giới thiệu mẫu đồng hồ Astron tại Tokyo – chiếc đồng hồ đeo tay sử dụng máy Quartz đầu tiên. Mẫu đồng hồ này chỉ được sản xuất với số lượng giới hạn 100 chiếc, có bộ vỏ vàng và có giá 450,000 Yên (bằng một chiếc xe ô tô Toyota Corolla).
Astron là phát súng đầu tiên, nhưng phải mất một thời gian sau thì những chiếc đồng hồ Quartz mới bắt đầu chiếm lĩnh thị trường. Seiko và một số nhà sản xuất tiên phong khác phải mất thêm một chút thời gian để hoàn thiện thiết kế này, vì lẽ đó nên Seiko cũng không giới thiệu thêm một mẫu Astron nào cho tới năm 1971.
Không phải những chiếc đồng hồ với mặt số và kim như thông thường, mà chính những chiếc đồng hồ điện tử mới tạo nên những cơn sóng mạnh mẽ đầu tiên. Vào tháng 4/1972, Hamilton cho ra mắt chiếc đồng hồ điện tử đầu tiên: Pulsar. Chiếc đồng hồ này có bộ vỏ bằng vàng, được bán với giá 2,100 USD và sở hữu một màn hình LED. Không giống như những chiếc đồng hồ analog với mặt số và kim, đồng hồ điện tử digital không có một bộ phận nào di chuyển liên tục.
Về mặt lý thuyết, màn hình LED có một vài điểm yếu: bạn cần tới hai tay để xem thời gian (1 tay đeo đồng hồ, 1 tay bấm nút) và đèn hiển thị cũng tiêu tốn rất nhiều pin. Vào năm 1973, Seiko đã giới thiệu màn hình LCD hiển thị thời gian liên tục. Tuy vậy, một số đồng hồ LCD thời gian đầu rất khó đọc.
Cho dù vẫn chưa thực sự hoàn hảo, Pulsar vẫn là một thiết kế cực kỳ thành công. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc cách mạng Quartz, đồng hồ điện tử phổ biến hơn hẳn so với đồng hồ Quartz, và LED cũng vẫn phổ biến hơn so với LCD.
Nhu cầu sử dụng đồng hồ LED tăng đáng kể khi National Semiconductor bắt đầu tham gia thị trường đồng hồ với mức giá 125 USD – chỉ bằng một nửa so với các đối thủ cạnh tranh. Với mức giá đó, doanh nghiệp đến từ Mỹ đã đè bẹp rất nhiều đối thủ. Trong năm 1975, có rất nhiều công ty như Motorola, Hughes, Fairchild, Intel’s Microma, Hewlett-Packard… cũng bắt đầu sản xuất đồng hồ LED.
Có thể nói rằng trong thời điểm này, nước Mỹ đã tìm lại được chút hào quang của quá khứ (Nước Mỹ từng là cường quốc số một về đồng hồ, vượt qua cả Thụy Sĩ vào đầu thế kỷ XX. Chúng tôi sẽ nói về câu chuyện này trong một bài viết khác). Tuy vậy, nguồn cung ngày càng tăng nhưng nhu cầu sử dụng đồng hồ LED lại ngày càng giảm. Việc phải nhấn nút để hiển thị giờ quá bất tiện nên không mấy ai còn mặn mà với thiết kế này nữa. Tới khoảng năm 1980, những thiết kế đồng hồ LED gần như biến mất hoàn toàn.
Màn hình LCD lúc đó đã trở thành tiêu chuẩn mới cho đồng hồ điện tử, và việc sản xuất được chuyển về phương Đông: Hong Kong, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Trung Quốc. Trong số đó, Hong Kong có sự phát triển ngoạn mục nhất và trở thành trung tâm sản xuất đồng hồ phát triển nhanh nhất trong năm 1980, xuất khẩu 126 triệu chiếc đồng hồ.
Theo thời gian, giá thành của những chiếc đồng hồ LCD cũng bị giảm xuống, những chiếc đồng hồ điện tử đã trở nên rẻ rúng cả về giá trị lẫn hình ảnh. Vì lý do đó, những chiếc đồng hồ analog với mặt số và kim bắt đầu có tiếng nói. Điều này cũng đã tạo nên cuộc đối đầu lớn nhất trong cách mạng đồng hồ Quartz: Seiko và Thụy Sĩ.
Tất cả những nhà sản xuất từ Nhật đều phát triển công nghệ Quartz, nhưng người dẫn đầu không ai khác ngoài Seiko. Citizen lúc đó chỉ được ví như một đứa nhóc với doanh thu chỉ bằng 1/4 so với Seiko, Casio là kẻ đến sau – chỉ xuất hiện sau năm 1978.
Không một thương hiệu nào tập trung vào đồng hồ Quartz mạnh mẽ như Seiko, nhưng có một điều đặc biệt là họ không chú trọng lắm vào dòng đồng hồ LED – và lịch sử đã chứng minh rằng họ đúng. Họ cũng tập trung đầu tư vào robot và các công cụ sản xuất với số lượng lớn, tự động.
Tất cả những sự đầu tư trên đã giúp Seiko gặt được thành quả to lớn, đến năm 1977 họ đã trở thành công ty đồng hồ có doanh thu lớn nhất thế giới (Timex đạt vị trí thứ hai). Sự chuyển hướng của Seiko từ đồng hồ cơ học sang đồng hồ Quartz cũng có lý do chính đáng: để tránh sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối thủ Thụy Sĩ.
Vào thời điểm đó, ngành đồng hồ Thụy Sĩ có 2 tập đoàn lớn: SSIH sở hữu ngôi sao Omega và ASUAG với thương hiệu nổi tiếng Longines. Omega và Longines lúc đó cũng xếp thứ ba và thứ tư trong bảng xếp hạng. Phần còn lại là vô số những công ty nhỏ hơn, trông cậy vào sự lãnh đạo và định hướng của những ông lớn này.
Sau một thời gian, Thụy Sĩ nhận ra rằng “Khủng hoảng đồng hồ Quartz” đã làm đảo lộn hoàn toàn ngành công nghiệp đồng hồ. Và hai người đứng đầu ngành đồng hồ Thụy Sĩ: Ernst Thomke và Nicolas G. Hayek đã ngồi với nhau để đưa ra quyết định cải tổ ngành công nghiệp tỷ đô này.
Thomke là người bắt tay vào công việc trước, ông đã cải tổ lại Ebauches SA của ASUAG và tạo nên một công ty mới – ETA SA. Ông đã cắt giảm chi phí sản xuất, giảm nhân sự và chuyển hướng công ty sang sản xuất đồng hồ Quartz – Điều này đã dẫn đến thắng lợi đầu tiên của Thụy Sĩ.
Vào năm 1978, Citizen cho ra mắt chiếc đồng hồ mỏng nhất thế giới: Exceed Gold với độ dày 4.1mm. Ngay trong năm đó, Seiko đã phá kỷ lục với chiếc đồng hồ dày 2.5mm. Tuy nhiên, đến tháng 1/1979, ETA đã làm cho cả giới đồng hồ phải sửng sốt với chiếc đồng hồ Delirium chỉ dày 1.98mm. Hai bên liên tục ăn miếng trả miếng nhưng ETA vẫn là người chiến thắng cuối cùng với mẫu Delirium IV chỉ dày 0.98mm – tới ngày nay vẫn là mẫu đồng hồ mỏng nhất.
Delirium là một thắng lợi lớn, nó cho thấy Thụy Sĩ vẫn có tiếng nói trong giới đồng hồ, kể cả với đồng hồ Quartz. Thực tế là đồng hồ Quartz của Thụy Sĩ có thể tận hưởng chiến thắng ở tầm giá trung và cao cấp với các thương hiệu như Cartier, Raymond Weil, Gucci, Ebel, và Concord.
Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ và Hayek là người tiếp tục đưa ra hành động của mình, ông đã sát nhập hai tập đoàn lại thành SMH – ngày nay được biết tới với cái tên Swatch Group. Với mũi nhọn là ETA, họ cho ra mắt mẫu đồng hồ Swatch vào năm 1983. Đối với giới đồng hồ, đây là một cú sốc lớn – không ai có thể tưởng tượng một thương hiệu Thụy Sĩ lại cho ra mắt mẫu đồng hồ rẻ tiền đến vậy.
Swatch đã tạo nên một sự thay đổi thực sự tới ngành đồng hồ Thụy Sĩ. Chỉ hai năm từ khi mẫu đồng hồ này ra mắt, số lượng đồng hồ xuất khẩu từ Thụy Sĩ đã tăng lên 60 triệu chiếc mỗi năm (trong đó có 80% đồng hồ Quartz và 42% đồng hồ Quartz sử dụng vỏ nhựa).
Đồng hồ Quartz sau đó tiếp tục phát triển với một thế hệ mới có tên “super quartz” với độ chính xác cực kỳ cao từ thương hiệu Breitling và Grand Seiko. Bên cạnh đó, những chiếc đồng hồ năng lượng mặt trời cũng được giới thiệu bởi Citizen và công nghệ nạp năng lượng điện từ chuyển động cũng được ra mắt bởi Seiko – loại bỏ hoàn toàn việc thay pin.
Ngày nay, đồng hồ cơ học được yêu thích bởi sự phức tạp, vẻ đẹp và độ hiếm của chúng. Chúng ta có thể nói đồng hồ cơ hiếm cũng không sai vì đồng hồ Quartz đã chiếm tới 97% số đồng hồ được sản xuất mỗi năm (khoảng 1.42 tỷ chiếc đồng hồ). Đứng trên khía cạnh nhà sản xuất hay nhà phân tích, chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng thế giới đồng hồ ngày nay là thế giới của đồng hồ Quartz.
Trong phần tới, chúng ta sẽ nói tới “Sự lên ngôi của đồng hồ thời trang”.
Nguồn : Từ điển đồng hồ & suadongho24h.com